6/12/13

Phân tích những kết quả của PISA Việt Nam 2012

 Tăng Thị Thùy

Theo kết quả khảo sát PISA 2012 của OECD được công bố ngày 3 tháng 12 năm 2012, Việt Nam đứng thứ 17 về toán toán học, thứ 19 về đọc hiểu và thứ 8 về khoa học. Tuy nhiên đây chỉ là kết quả thành tích mà 4959 học sinh Việt Nam đạt được qua các bài kiểm tra PISA. Sau khi làm bài kiểm tra xong, học sinh sẽ phải trả lời một phiếu khảo sát với 53 câu hỏi liên quan đến rất nhiều yếu tố trong quá hoạt động học tập của học sinh như: độ tuổi đến trường; giới tính; hoàn cảnh gia đình; môi trường học tập; cơ sở vật chất; trốn học; sự thích thú, khả năng tự tin của học sinh đối với các môn học… Thông qua kết quả của phiếu khảo sát này sẽ cho thấy những những vấn đề mà học sinh gặp phải trong quá trình học tập.  Chẳng hạn,như trường hợp của Đài Loan luôn nằm trong tốp các nước/ vùng kinh tế có thành tích toán học cao nhất trong các kỳ khảo sát PISA nhưng thực chất phân tích khi phân tích phiếu khảo sát  thì kết quả cho thấy rằng đa số học sinh không thích thú với việc học môn toán.
Như vậy kết quả thành tích qua bài kiểm tra cũng chưa thấy được những vấn đề thực sự của giáo dục. Theo phân tích sơ bộ của OECD thì PISA Việt Nam thể hiện như sau:

                                   
Về thành tích chung, cả ba lĩnh vực toán học, đọc hiểu và khoa học, Việt Nam đều đứng trên mức trung bình của OECD.  Tuy nhiên, tỷ lệ phần trăm học sinh đạt thành tích cao thì lại thấp hơn hoặc chỉ tương đương với trung bình  của OECD. Điều này cho thấy Việt Nam không có nhiều học sinh đạt thành tích cao nhưng cũng cho thấy không có khoảng cách quá xa giữa học sinh đạt thành tích cao và học sinh có kết quả thấp vì tỷ lệ phần trăm sinh viên đạt kết quả thấp khả quan hơn trung bình của OECD.
Thành tích toán học và khoa học của học sinh nam so với học sinh nữ cũng chỉ trong khoảng trung bình của OECD. Như vậy có sự khác biệt về thành tích học tập giữa nam và nữ (có 2648 học sinh nữ và 2311 học sinh nam tham gia khảo sát). Do vậy, giới tính trong giáo dục là một vấn đề của giáo dục Việt Nam. Kết quả PISA cũng chỉ ra bối cảnh xã hội có sự ảnh hưởng đến thành tích học tập của học sinh. Khi bối cảnh xã hội hiện nay vẫn còn trọng băng cấp, thi cử, thành tích thì chắc sẽ tác động mạnh đến phương pháp dạy và học của thầy – trò chủ yếu là để đối phó với thi cử.
Về bản thân học sinh, theo khảo sát tỷ lệ trốn tiết học, ngày học của học sinh Việt Nam cao hơn mức trung bình của OECD. Theo dữ liệu công bố của PISA, sau khi sử lý bằng phần mềm SPSS, kết quả cho thấy: có 16% học sinh đi học muộn; 8,7% học sinh trốn học cả ngày; 6,3% học sinh trốn tiết (xem bảng 1,2,3).  Việc trốn học này đã ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh. Và sự ảnh hưởng này cao hơn trung bình của OECD.
Ngoài ra, sự lo lắng của học sinh Việt Nam cũng cao hơn trung bình của OECD. Kết quả cho thấy học sinh Việt Nam chưa được thỏa mái trong học tập nên khẩu hiệu “mỗi ngày đến trường là một niềm vui” dường như vẫn chỉ là khẩu hiệu!.
Điều đáng nói nữa là học sinh Việt Nam chưa có niềm tin vào khả năng của mình khi mà kết quả PISA chỉ ra rằng tỷ lệ học sinh Việt Nam tin vào khả năng của bản thân thấp hơn trung bình của OECD.  Câu hỏi đặt ra  cho mục đích giáo dục, liệu mục đích giáo dục của chúng ta đang có vấn đề?
Trên đây chỉ là một số những  điểm sơ nét mà OECD chỉ ra qua cuộc khảo sát PISA của Việt Nam năm 2012.  Những để có những kết quả  chi tiết hơn thì cần tiếp những nghiên cứu phân tích kỹ lưỡng bảng khảo sát học  sinh, nhà trường, phụ huynh (hiệu trưởng và phụ huynh cũng là đối tượng trong cuộc khảo sát PISA). Từ đó chúng ta mới thấy được bức tranh rõ nét của giáo dục phổ thông Việt Nam hiện nay.


                                                                                       

Bảng 1. Tỷ lệ học sinh đi học muộn

Tần số
Phần trăm
Không đi học muộn
4154
83.9
1 đến 2 lần
694
14.0
3 đến 4 lần
71
1.4
5 lần trở lên
31
.6
Tổng số
4950
100.0
* Không tính 2 phiếu không hợp lệ và 7 phiếu không trả lời

Bảng 2. Tỷ lệ học sinh trốn học cả ngày

Tần số
Phần trăm
Không trốn buổi học
4521
91.3
1 đến 2 lần
372
7.5
3 đến 4 lần
43
.9
5 lần trở lên
16
.3
Tổng số
4952
100.0
*Không tính 7 phiếu không trả lời

Bảng 3. Tỷ lệ học sinh trốn tiết học                      

Tần số
Phần trăm
Không trốn tiết học
4641
93.6
1 đến 2 lần
268
5.4
3 đến 4 lần
32
.6
5 lần trở lên
16
.3
Tổng số
4957
100.0
*Không tính 2 phiếu không trả lời


----------------------------------------------------------------------------------------

Thêm bài viết đưới đây ở báo Tuổi Trẻ:

http://tuoitre.vn/Giao-duc/583537/khao-sat-pisa-viet-nam-duoc-danh-gia-cao-tai-dong-nam-a.html

                                                                                       


26/12/12

University entrance exam system costly and needs reform



Hiep Pham01 July 2012 Issue No:228

Vietnamese school-leavers will sit national university entrance examinations that start on 4 July and last for almost a week, as they compete for places at some 58 universities and colleges, amid ongoing discussion that the exam system needs reform.

The nationwide exam is known as the ‘three commons’. All candidates tackle the same exam questions on the same dates and receive the results on the same date. According to the Ministry of Education and Training, 604,281 students will sit the exam this year.

But the overall number of higher education applications is down by 7.7% compared to last year – students on average make three to four applications to hedge their bets based on universities’ cut-off marks.

Hanoi, with the highest number of applications in the country at 164,000, is down 2,000 compared to 2011. In Thanh Hoa province the number of applications, 79,130 this year, has dropped by 11,000. In 2010 the overall number of applications fell by 12%, from 2.13 million to 1.87 million. 

Under the current system, candidates submit several applications to universities in April and then wait for the cut-off marks for each university to be announced while they are preparing for the exam. Students only make the final decision, just before the exam date, about which university to have their entrance exam marked at.

Costly system

But allowing multiple registrations can be costly for universities.

Pham Thai Son, head of the education and training department of the University of Food Industry in Ho Chi Minh City, said the institution had to rent an extra 500 examination rooms to accommodate 22,000 students registered to take the exam. But not all of them would actually take the exam there.

“We will lose about VND600 million (US$28,680) this session, and this doesn't include the fees we must pay for the people who mark the exams. At the end of this session we expect the losses to reach into the billions [of dong],” he told official media in June.

The fee for taking exams is only VND67,000 (US$3.20) per student, and universities and colleges are reluctant to raise the fees to help cover their additional costs for fear that they will lose promising students, officials said.

In the past, universities have called on the ministry to provide additional resources for the exam season. This year both the ministry and provincial governments said they had improved guidance and support programmes for candidates to help them choose universities and reduce the number of speculative applications.

At the other end of the scale, some universities have said they cannot attract enough enrolments because, prior to the exam, candidates tend to apply to the trusted top public universities, which also have lower tuition fees.

Some newly established or private universities receive very low numbers of applications. 

Some experts have warned that more education institutions could go bankrupt unless the system is changed.

To counter this, students who fail to gain their first choice have been allowed since 2005 to apply to other universities in a second round organised by the ministry in September or early October or even, in some years, a third round in November. 

New rules mooted

From 2020, when a 
new university law comes into effect, university entrance exams will only be held at top universities, allowing other universities and colleges to select students based on school records.

This was first made public last year when Bui Van Ga, the vice-minister of education, said during a press conference in Hanoi that by 2020, when the higher education system has the capacity to provide about four million places, the ministry-administered exam may be removed, except for some elite programmes.

The ministry would “only monitor the outcome through a quality assurance system”, Ga said. 

Under an interim proposal released in February, the ‘three commons’ will continue until 2015 and key universities will be asked to submit new enrolment plans to the ministry for approval before that date.

During the past academic year, the ministry also encouraged several top universities to pilot a separate exam. But according to some university leaders, the government still appears reluctant to provide all universities with the autonomy needed to set up their own admissions schemes.

Prior to 2002, Vietnamese higher education institutions had full responsibility for entrance examinations. But the downside was more cheating and red tape during the selection process, which led to the ministry stepping in to set up the current system.

Bui Ngoc Son, vice-rector of Foreign Trade University, said the ‘three commons’ provided a “balanced solution” in terms of both the quality and cost of the exam.

A meeting of 400 university rectors, organised by the ministry in February, supported the removal of the ‘three commons’ but only in the long run. Many are still sceptical, saying it is not the first time that the ministry has proposed a timetable for change, but later cancelled it.

Others said making proposals for reform without proper consultations merely makes students and their families anxious.

Source: http://www.universityworldnews.com/article.php?story=20120629150705242

University Entrance System in Taiwan

Hôm qua học môn Nghiên cứu Giáo dục Đại học, một vấn đề được đưa ra thảo luận cả buổi học (cái này là do mình hỏi nhiều quá thành ra GS phải cho thảo luận cả giờ) đó là vấn đề tuyển sinh đại học. Trên thế giới mỗi nước có cách tuyển sinh khác nhau. Ví dụ: Đài Loan là điển hình cho mô hình VN có thể áp dụng. Cảm thấy khá thú vị với hệ thống tuyểin sinh đại học này. Muốn viết một bài nghiên cứu về vấn đề này. Nhưng hiện nay vẫn chưa có thời gian, đành note lại để có thời gian sẽ viết.

- Không thi tốt nghiệp cấp 3
- Thi kỳ thì năng lực (không bắt buộc) => biết kết quả => apply vào các trường (cùng một lúc có thể apply nhiều trường). Nếu qua vòng apply, thì sẽ phỏng vấn
- Thi trực tiếp vào các trường: SV nếu mà không được chấp nhận qua kỳ thi năng lực thì có thể có cơ hội thứ 2 là trực tiếp thi. Môn thi tùy vào từng khoa quy định. Thi chung vào một ngày. Có quy định về điểm chuẩn.

Hình thức này được áp dụng từ năm 1994. Trước kia chỉ có một kỳ thi vào Đại học thôi.

p/s: so sánh với VN, đặc biệt là vấn đề một số trường ngoài công lập không tuyển sinh được sinh viên. Nguyên nhân vì đâu? Giải pháp


Tìm tài liệu thêm...


18/12/12

Internship in Higher Education

Giao su dang nho minh tim va viet bai ve "internship", tim tai lieu va doc moi ca mat ma van chua xong, hic hic...phai co gang hoan thanh chu de nay. Nhieu tai lieu tham khao qua. Note lai bai biet va y tuong ve van de nay de roi viet tiep chu de nay

(ghi lai y tuong) dang nhieu viec qua chua co thoi gian, nhat dinh se viet!


Shadow Education

Hom nay hoc mon "Nghien cuu giao duc dai hoc" nhung ma ca buoi chi thao luan ve "shadow education", "cram schools", "Private tutoring"  and "buxiban" ( tieng Trung). Thay chu de nay cung muon viet mot bai ve van de quan ly day them - hoc them o VN, co le bai hoc cua Dai Loan la gan gui voi VN nhat. Nhat dinh se viet bai nay...

Mot so tai lieu tham khao
http://unesdoc.unesco.org/images/0018/001851/185106ben.pdf
http://unesdoc.unesco.org/images/0018/001851/185106e.pdf
http://www.nesse.fr/nesse/activities/reports/the-challenge-of-shadow-education-1
http://ganjalyanyura.wordpress.com/2012/11/02/mark-brays-book-confronting-the-shadow-education-system-what-government-policies-for-what-private-tutoring/
http://www.manilatimes.net/index.php/news/top-stories/26180-shadow-education-booming-in-asia

‘Shadow education’ booming in Asian 

Published on 05 July 2012, Written by 

14/11/12

Trường mầm non trong ba nên văn hóa: Nhật Bản, Trung Quốc và Mỹ

Tuần trước học môn Methodology of Culture and Education, GS đã cho đọc tài liệu "Preschool in three cultures: Japan, China and the United States" của các tác giả Joseph J.Tobin, David Y.H.Wu và Dana H.Davidson được xuất bản năm 1989 nhưng những nghiên cứu trong sách là từ những năm 1980, được ghi lại bằng video về các hoạt động trong giáo dục mầm non ở 3 nước này, tiêu biểu tại 3 trường mầm non. Sau này, năm 2009 có một revisit tới 3 nước này. Tuy nhiên, mình chưa đọc cuốn này. Sẽ cố gằng đọc hết (GS nói cũng hơi nhiều vấn đề).

Lên lớp thảo luận, xem Video của nghiên cứu này tự nhiên mình muốn dịch cuốn sách này ra tiếng Việt. Sách này đã được dịch ra tiếng Trung năm 1997.

Dự định để đó đã...:(

26/8/11

Đại học Việt Nam - vừa đội nón, vừa che ô?

Đọc thấy bài này nhiều điểm đồng quan điểm, lưu lại làm tài liệu tham khảo (

Tác giả: TS Đào Văn Khanh (Đại học Cần Thơ)
Tự chủ ĐH và tính xơ cứng của hệ thống
Cùng với tài chính, quản trị là một lĩnh vực rất quan trọng trong giáo dục đại học Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống quản trị ĐH Việt Nam, từ cấp nhà nước đến các cơ sở giáo dục ĐH đến nay vẫn còn chưa rõ ràng và thiếu minh bạch. Copy mô hình hệ thống từ thời Liên Xô cũ từ năm 1954 ở miền Bắc, và từ năm 1975 ở miền Nam, nhìn chung hệ thống quản trị ĐH Việt Nam đến nay vẫn không có nhiều thay đổi. Về mặt quản lý Nhà nước, Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm chung.
Trên cơ sở đó, 13 bộ ngành và các địa phương quản lý tập trung các cơ sở giáo dục ĐH, CĐ. Trong tổng số 376 trường đại học cao đẳng (số liệu năm 2009)[1], Bộ GD&ĐT quản lý 54 trường (14,4%). Các bộ, ngành khác quản lý 116 trường (30,8%). UBND các tỉnh, TP là cơ quan chủ quản của 125 trường (33,2%). Có 81 trường dân lập, tư thục (21,5%).
Trong khi Bộ GD&ĐT là cơ quan duy nhất theo luật pháp được ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giáo dục cấp bộ thì việc kiểm tra chấp hành các văn bản đó ở các trường ĐH, CĐ thuộc các bộ, ngành khác và do UBND là cơ quan chủ quản còn rất hạn chế. Có bộ còn ra văn bản chồng chéo lên chức năng quản lý Nhà nước của Bộ GD&ĐT[2].
Thời gian qua, Bộ GD&ĐT đã có một số chủ trương như phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh dựa trên năng lực và cơ sở đề xuất của các trường, đồng thời qui định các trường thực hiện ba công khai[3]... Tuy nhiên, những chủ trương trên hoàn toàn chưa đủ vì tính xơ cứng của hệ thống tồn tại quá lâu. Thực tế cho thấy cơ chế xin-cho vốn không minh bạch vẫn còn tồn tại khá nặng nề và bản thân các trường chưa thoát ra khỏi thói quen trông chờ ỷ lại vào bầu sữa bao cấp.

Có ý kiến cho rằng nếu Nhà nước không quản lý và đưa ra qui định cụ thể ràng buộc các trường thì hệ thống giáo dục ĐH sẽ không kiểm soát được. Lập luận này, trong một chừng mực nào đó là hoàn toàn có cơ sở. Tuy nhiên, 1 câu hỏi đặt ra là tại sao trong 1 hệ thống giáo dục ĐH Việt Nam như hiện nay lại tồn tại quá nhiều trường ĐH với chất lượng yếu kém?
Phải chăng nguyên nhân chính xuất phát từ hệ thống quản lý có quá nhiều bất cập. Sự cho phép mở quá nhiều trường ĐH cũng như nâng cấp ào ạt hàng loạt các trường CĐ lên ĐH, cùng với việc thành lập nhiều trường ngoài công lập đã làm chất lượng đào tạo không tương xứng với danh xưng vốn có của một trường ĐH?
Có người lý giải việc cấp phép nâng cấp và mở thêm nhiều trường ĐH mới là nhằm đáp ứng mục tiêu 200 sinh viên/ 1 vạn dân vào năm 2010 và 450 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2020 theo Nghị quyết 14/2005. Tuy nhiên, việc này đã dẫn đến hệ lụy chất lượng thấp kém đến nỗi Quốc hội, trong năm 2010 phải thành lập Ủy ban giám sát và ra Nghị quyết về việc thành lập các trường và chất lượng đào tạo ĐH[4].

Song song đó là một hệ thống giáo dục ĐH khá phức tạp với 2 ĐH quốc gia, 3 ĐH vùng, bên dưới là các "trường ĐH thành viên" trực thuộc cũng như hàng loạt các trường ĐH đơn ngành, đa ngành, và trường CĐ do các bộ ngành và các tỉnh quản lý, đã mang đến những lẫn lộn nhất định về tên gọi cũng như tính chính thể của hệ thống[5].
Một vấn đề cần xem xét là 2 ĐH quốc gia thật sự có được quyền tự chủ theo đúng nghĩa hay chưa, tức "tự chủ thực chất" và "tự chủ thủ tục" (Berdahl, 1990) về các mặt như tổ chức quản trị/ quản lý, tài chính, nhân sự, tuyển sinh, học thuật/ chương trình... Ở các ĐH khu vực, tình hình có vẻ gay cấn hơn do các ĐH này trực thuộc Bộ GD&ĐT, mức độ tự chủ chỉ phần nào.
Tầng nấc quản lý từ Bộ GD&ĐT xuống ĐH khu vực rồi từ ĐH khu vực xuống các trường ĐH thành viên, càng làm cho việc quản lý ngày càng trở nên phức tạp. Hình tượng ví von "vừa đội nón, vừa che ô" cho thấy sự rối rắm của mô hình ĐH quốc gia và ĐH khu vực vốn cần được các cấp nhà nước nghiên cứu thấu đáo[6].
Bên cạnh các trường ĐH, CĐ, sự hình thành và tồn tại của các viện nghiên cứu độc lập theo mô hình của Liên Xô cũ đã mang đến những tách biệt giữa nghiên cứu và đào tạo. Có ý kiến cho rằng cần xem xét sáp nhập các viện nghiên cứu với các trường ĐH cụ thể bởi bản thân một số viện nghiên cứu có các nét tương đồng hoặc các lĩnh vực liên quan. Tuy nhiên, trong bối cảnh của giáo dục ĐH Việt Nam hiện nay, đề xuất này khó khả thi vì những quyết định có tính lịch sử để lại từ thời Liên Xô (cũ).
Hơn nữa, ngay cả bản thân của các ĐH và trường ĐH hàng đầu ở Việt Nam vẫn còn nằm trong nhóm các trường chỉ mới có định hướng nghiên cứu (trên dưới 10% thu nhập từ khoa học công nghệ). Mối quan tâm hiện nay là Nhà nước cần tạo ra cơ chế phù hợp để thúc đẩy việc nghiên cứu, cũng như gắn kết chặt chẽ hơn giữa các trường ĐH và các viện nghiên cứu.

Tự chủ đại học- ai được, ai mất?
Trên thế giới, tự chủ ĐH là một nguyên lý hết sức cơ bản trong quản trị ĐH. Tự chủ ĐH bao gồm 6 lĩnh vực tự chủ: Tự chủ trong quản lý nhà trường; phân bổ nguồn lực; tuyển chọn nhân sự, tài chính và điều kiện làm việc; tuyển chọn sinh viên; chương trình đào tạo/ học thuật và giảng dạy; quyết định chuẩn học thuật, đánh giá và cấp văn bằng.
Các kết quả nghiên cứu về tự chủ ĐH trên thế giới cho thấy mức độ tự chủ ở 2 nhóm quốc gia, các nước phát triển và đang phát triển, là rất khác nhau, bởi mỗi quốc gia đều có thể chế chính trị, hình thái lịch sử, kinh tế, xã hội khác nhau. Tuy nhiên, có nét tương đồng chung về tự chủ ĐH ở 3 khu vực chính trên thế giới.
Ở các quốc gia thuộc hệ thống Anh-Mỹ, các trường ĐH có truyền thống tự chủ ĐH cao nhất nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm trước xã hội và chính phủ. Ở các nước châu Âu lục địa, tự chủ thường nằm trong khuôn khổ qui định chi tiết của nhà nước. Tuy nhiên, các qui định có vẻ được nới lỏng và việc phân cấp được thực hiện. Ở các nước châu Á nói chung, nơi có nhiều ĐH mới được hình thành, nhà nước thường có mức độ kiểm soát cao như là những công cụ đóng góp vào tính kết nối quốc gia và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.
Mặc dù vậy, tự chủ ĐH không phải là một khái nhiệm tuyệt đối. Nhà nước có thể can thiệp vào hoạt động của trường ĐH thông qua các hành lang chính sách pháp lý hoặc chế tài tài chính.
Ở Việt Nam, vấn đề tự chủ ĐH chưa được hiểu và nghiên cứu một cách thấu đáo. Với quan niệm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, Bộ GD&ĐT trên thực tế đã làm thay công việc của các trường, từ bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo đơn vị, bổ nhiệm GS, phó GS, phê duyệt chương trình khung (chuẩn chương trình), phân bổ chỉ tiêu đào tạo, quyết định việc mở ngành mới và mức học phí (đối với trường công lập).
Trả lời báo chí[7], nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH Trần Thị Hà cho rằng Bộ đã giao nhiều quyền tự chủ cho các trường nhưng bản thân các trường chưa tận dụng hết những quyền hạn được giao. Ngược lại các trường, qua các cuộc khảo sát, cho rằng bản thân các trường phải "xin" thì mới được Bộ "cho" như mở ngành mới, phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh v.v...
Theo cơ chế chuyển đổi từ mô hình kiểm soát sang giám sát mà nhiều nước trên thế giới đang áp dụng, vai trò của Bộ GD&ĐT là xây dựng khuôn khổ chính sách, hành lang pháp lý cho các trường trong khi các trường cần được thực sự tự chủ theo qui định của pháp luật, nhưng phải đánh đổi bằng trách nhiệm xã hội và trách nhiệm giải trình. Chính vì chưa có hành lang pháp lý rõ ràng và sự thống nhất trong cách tiếp cận đã dẫn đến những mâu thuẫn vốn âm ỉ và rất cần được giải quyết thấu đáo.
Về vấn đề này, có lẽ chúng ta nên học hỏi ở hệ thống quản trị ĐH Trung Quốc, nơi các trường ĐH không tách rời khỏi nhà nước mà là một bộ phận không thể thiếu của dự án hiện đại hóa quốc gia của Trung Quốc (Su Yan Pan, 2009). Mặc dù vậy, sự cởi mở của nhà nước (trong chừng mực) đối với 1 số trường ĐH hàng đầu như ĐH Thanh Hoa hay ĐH Bắc Kinh đã mang đến những thay đổi hết sức đáng khâm phục. Kết quả là 2 ĐH này trong khoảng 5 năm trở lại đây luôn nằm trong nhóm 100 trường ĐH hàng đầu thế giới theo xếp hạng của Tạp chí Times Higher Education[8].

Hội đồng trường- nhân tố tạo nên sự thay đổi
Để đảm bảo tính tự chủ và trách nhiệm xã hội của trường ĐH, vấn đề đặt ra cấp bách hiện nay là thành lập Hội đồng trường. Cả 2 điều lệ trường ĐH năm 2003 và năm 2010 đều đề cập đến việc này, nhưng tại sao cho đến nay chỉ có rất ít trường thành lập được hội đồng trường một cách đúng nghĩa là điều đáng suy gẫm.
1 câu hỏi đặt ra là tại sao phải có hội đồng trường trong các trường ĐH Việt Nam. Có thể thấy, trong lịch sử giáo dục ĐH Việt Nam, tất cả các hội đồng ở các trường ĐH, kể cả hội đồng khoa học đào tạo, đều có tính chất của những hội đồng tư vấn vì tất cả đều do hiệu trưởng quyết.
Theo GS Phạm Phụ (2005), hội đồng nhà trường bao gồm ban giám hiệu, các trưởng phó khoa, phòng ban, Đảng ủy, công đoàn... về bản chất vẫn là một một hội đồng hành chính (executive body) bên trong của nhà trường chứ chưa phải là một hội đồng quyền lực cao nhất của nhà trường và có rất nhiều thành viên độc lập bên ngoài nhà trường.
Về nguyên tắc, quyền lực cao nhất vẫn tập trung vào vai trò của hiệu trưởng. Ngoài ra, trong điều kiện chuyển đổi hết sức cơ bản của giáo dục ĐH Việt Nam hiện nay từ tinh hoa sang đại trà, nơi phần thu học phí đóng vai trò ngày càng quan trọng cũng như hương vị "thị trường" tăng cao, điều này cho thấy nhiều nội dung cần ra quyết định đã vượt ra ngoài khuôn khổ của trường ĐH truyền thống, trong đó có vấn đề tài chính trường ĐH.
Một cách tương ứng, việc ra quyết định ở các trường ĐH Việt Nam còn nặng theo mô hình truyền thống với quyền lực lớn nằm ở các tổ chức hành chính và các nhà quản lý hành chính. Xu hướng doanh nghiệp và kinh doanh ngày càng thâm nhập sâu vào trường ĐH. Ngoài ra, giáo dục ĐH Việt Nam đang ở trạng thái "cầu" vượt trội so với "cung" (chỉ khoảng 25% người học được vào các trường ĐH); trạng thái "độc quyền" vẫn còn tồn tại. Trong bối cảnh đó, cần phải giao quyền sử dụng tài sản và một phần quyền định đoạt lợi ích phát sinh cho một hội đồng trường như hội đồng quản trị ở các doanh nghiệp (Phạm Phụ, 2005).
Song song đó, hiện Nhà nước đang chủ trương tăng quyền tự chủ cho các trường công lập và đã thí điểm cơ chế "tự chủ tài chính" ở một số trường (như Trường ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Trường ĐH Kinh tế Tp.HCM, Trường ĐH Thương mại). Điều này có nghĩa là giáo dục ĐH đang từng bước chuyển dần cơ chế "phân phối thẩm quyền" từ mô hình cấu trúc trên-xuống (top-down - top heavy) sang mô hình dưới-lên (bottom-up - bottom heavy). Nghĩa là thẩm quyền ra quyết định trong giáo dục ĐH sẽ được tập trung chủ yếu ở cấp trường. Trong bối cảnh đó, trường ĐH phải tự biết đổi mới, biết chấp nhận rủi ro, và phải đưa ra nhiều quyết định có tính tính đa mục tiêu. Chỉ có hội đồng trường mới có thể đảm đương được những trách nhiệm đó.
Mặc dù vậy, qua khảo sát, phần lớn hiệu trưởng các trường ĐH đều không muốn thành lập Hội đồng trường vì nhiều nguyên nhân, trong đó sâu xa nhất vẫn là cơ chế hoạt động của Hội đồng trường và Đảng ủy có nhiều điểm trùng lắp nhau. Một số ý kiến lo ngại rằng với cơ chế hiện nay, nếu làm không khéo thì Hội đồng trường sẽ trở nên thừa vì hiệu trưởng không thể chịu sự chỉ đạo từ 2 cấp. Điều này đúng nhưng chưa đủ.
Điều đặc biệt quan trọng cần xem xét là Hội đồng trường chính là nhân tố tạo nên sự thay đổi chứ không phải là Ban Giám hiệu hay Đảng ủy (do tính khách quan, độc lập, số thành viên bên ngoài nhiều hơn bên trong) nên vai trò của Hội đồng trường trở nên cực kỳ quan trọng. Song song đó, chính việc thành lập Hội đồng trường đúng nghĩa sẽ giúp chuyển dần quyền lực từ bộ ngành chủ quản về các trường, đáp ứng yêu cầu xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản theo Nghị quyết 14/2005 của Chính phủ.

Kiến nghị
Từ những phân tích trên, tác giả xin kiến nghị một số giải pháp sau:
1. Xây dựng Luật Giáo dục ĐH một cách "chuyên nghiệp" hơn với sự tham gia của các chuyên gia về giáo dục ĐH trong và ngoài nước.
2. Phân tầng hệ thống giáo dục bậc cao:
Tầng 1 là chọn lựa một số trường ĐH trong số 15 trường trọng điểm quốc gia tập trung mạnh vào nghiên cứu. Trong điều kiện nguồn lực hạn chế hiện nay của Việt Nam, có thể chỉ một số lượng ít (khoảng 5 trường) để các cơ sở giáo dục này được hỗ trợ lớn từ nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có trình độ chất xám cao cho quốc gia.
Tầng 2 sắp xếp lại các trường ĐH có định hướng giảng dạy và nghiên cứu, trong đó tập trung vào nhóm giảng dạy gắn liền với nghiên cứu (tỉ lệ giảng dạy/ nghiên cứu có thể là 7:3) để tạo ra những sản phẩm nghiên cứu đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có trình độ cao ở khu vực.
Tầng 3 là các trường ĐH, CĐ, CĐ cộng đồng có định hướng nghề nghiệp với trọng tâm chính là giảng dạy để phục vụ cho nhu cầu nghề nghiệp của địa phương. Đồng thời xem xét sát nhập một số cơ sở nhỏ lẻ để đáp ứng hiệu quả và qui mô kinh tế.
3. Trao quyền tự chủ thật sự cho một số trường có uy tín và tiềm lực mạnh trong khi kiểm soát chặt chẽ các trường chất lượng kém. Đề xuất này phù hợp với nội dung và ý kiến của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận tại Hội nghị lấy ý kiến đóng góp về Dự thảo Luật Giáo dục Đại học ngày 19-20/4/2011 tại Hà Nội [9].
4. Thành lập Hội đồng trường theo đúng nghĩa trong tất cả các trường ĐH với số lượng thành viên bên ngoài nhiều hơn bên trong. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng trường, Đảng ủy và Ban Giám hiệu. Vai trò của bộ chủ quản sẽ dần dần mất đi khi quyền lực được chuyển giao cho Hội đồng trường.
5. Sắp xếp lại hệ thống các ĐH quốc gia và ĐH khu vực theo hướng xây dựng được cơ chế phối hợp để minh bạch quyền lợi và trách nhiệm của từng trường thành viên.
------
Tài liệu tham khảo

Anderson, D., & Johnson, R. (1998). University Autonomy in Twenty Countries: Canberra: Department of Employment, Education, Training and Youth Affairs. Commonwealth of Australia 1998.
Ashby, E., and Anderson. M. (1966). Universities: British, Indian, African. A Study of the Ecology of Higher Education. London: Weidenfield & Nicholson
Berdahl, R. (1990). Academic freedom, autonomy and accountability in British universities. Studies in Higher Education 15 (2): 169-80.
Dao, K. V., & Hayden, M. (2010). Reforming the Governance of Higher Education in Vietnam. In G. Harman, M. Hayden & T. N. Pham (Eds.), Reforming Higher Education in Vietnam: Challenges and Priorities. Dordrecht, The Netherlands: Springer
Mora, J. G. (2001). Governance and Management in the New University. Tertiary Education and Management, 7, 95-110.
Neave, G., & van Vught, F. (1994). Government and Higher Education in Developing Nations: A Conceptual Framework. In G. Neave & F. van Vught (Eds.), Government and Higher Education Relationship Across Three Continents: The Wind of Change (pp. 1-21): IAU, PERGAMON
Lam Quang Thiep (2010). Description and analysis of Vietnam's higher education. Report 1.
Pham Phu (2005). About a new face for higher education in Vietnam. Ho Chi Minh National University Press
Santiago, P., Tremblay, K., Basri, E. and Arnai, E. (2008). Tertiary Education for the Knowledge Society. Paris: OECD.
Su Yan Pan (2009). University Autonomy, the State, and Social Change in China. Hong Kong University Press

[1] Đến nay (năm 2011), số lượng các trường đại học cao đẳng lên đến trên 400
[2]http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/giao-duc/2009/10/3ba151a0/
[3] Thông tư số 09/2009/TT-BGD&ĐT ngày 7/5/2009 về việc thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu thực hiện công khai cam kết của cơ sở giáo dục về chất lượng giáo dục và công khai về chất lượng giáo dục thực tế, về điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục và về thu chi tài chính để người học, các thành viên của cơ sở giáo dục và xã hội tham gia giám sát và đánh giá cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.
[4] Báo cáo số 329/BC-UBTVQH12 ngày 26/5/2010
[5] Rất khó giải thích cho người nước ngoài hiểu được hệ thống giáo dục Việt Nam. Nếu như ĐHQG, ĐH vùng là University thì các trường thành viên cũng là University (hay member university), nghĩa là trường ĐH trong ĐH. Con dấu của 2 ĐHQG cũng mang hình quốc huy như Bộ GD-ĐT. Thủ tướng trực tiếp điều hành cả Bộ GD-ĐT và 2 ĐHQG. Có người cho rằng ở Việt Nam hiện nay có đến ba Bộ GD-ĐT chứ không phải là một. Nguồn: http://dantri.com.vn/c25/s25-445979/mo-hinh-dh-vung-vua-doi-non-vua-che-o.htm
[6] Năm 2006, nguyên Bộ trưởng Bộ GD- ĐT Nguyễn Thiện Nhân trong buổi làm việc với ĐH Đà Nẵng có nói: "Cuối năm 2006, Bộ sẽ rà soát lại nhiều vấn đề vướng mắc cần tháo gỡ để đi đến quyết định về mô hình chuẩn của ĐH vùng". Năm 2010, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đến làm việc với ĐH Huế và phát biểu rằng phải xây dựng được cơ chế phối hợp để quyền lợi và trách nhiệm của từng trường thành viên mất đi ít nhất; được liên kết, hỗ trợ nhiều nhất, để có sự phát triển và hiệu quả đào tạo cao hơn so với đứng ngoài ĐH vùng". Tuy nhiên, đến nay, mọi việc vẫn chưa có gì thay đổi. Nguồn: http://dantri.com.vn/c25/s25-445979/mo-hinh-dh-vung-vua-doi-non-vua-che-o.htm ngày 23/01/2010.
[7] Theo báo Vietnamnet, ngày 15-10-2008: Đến nay Bộ GD-ĐT chỉ "ôm" nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thổi còi khi trường "lách luật". Nhưng thực tế các trường tự chủ đang lúng túng chưa biết mình phải làm gì và căn cứ vào đâu để làm(!)- phát biểu của Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD-ĐT) Trần Thị Hà.
[8]http://www.timeshighereducation.co.uk/hybrid.asp?typeCode=144

1/8/11

Industrial Education

Tựa đề này là một chủ đề mới mà tôi sẽ quan tâm sắp tới: Industrial education- Technical education - Vocational education (có nhiều thuật ngữ...tôi chưa rõ sự khác nhau của những thuật ngữ này). Giáo sư hướng dẫn luận văn của tôi vừa chuyển công tác tới trường Taiwan Normal University - Industrial Eduation Department. GS cũng chuyển hướng nghiên cứu của mình tới một mảng mới là Giáo dục nghề (trung cấp chuyên nghiệp- ở việt nam). GS có dự án và cho tôi cùng tham gia, nhiệm vụ của tôi là nghiên cứu về industrial education in Vietnam. Có lẽ sau này mong được cùng giáo sư viết một bài về mảng này. Còn đề tài luận văn mà GS đang hướng dẫn tôi là "A case study on quality assurance system of Vienamese higher education"
Mong nhận được sự chia sẻ và ý kiến từ mọi người :)

Conference on International Comparison of Teacher Quality

26 to 27 November 2011
Kaohsiung, Taiwan

Website: http://www.ed.ntnu.edu.tw/~rujer/2011teaq/
Contact name: Syuan-Yi Wu


Conference Announcement / Call for papers

International Conference on International
Comparison of Teacher Quality
26 to 27 November 2011
Kaohsiung, Taiwan

Keynote speakers:
1. HATA Takashi
Professor, Center for the Advancement of Higher
education, Tohoku University
2. James Jacob
Director, Institute for International Studies in
Education, University of Pittsburgh
3. Jamil Salmi
The World Bank's tertiary education coordinator
4. Lee Wing On
Dean, Education Research of Singapore
5. Michele Schweisfurth
Reader in Comparative and International
Education and Director, Centre for International
Education and Research

Topics covered:
1. Primary and secondary level
2. Higher education Level

Important Dates:
August 31, 2011 Abstract submissions due
September 30, 2011 Notification of acceptance

Enquiries: syuanyi@ntnu.edu.tw

Web address:
http://www.ed.ntnu.edu.tw/~rujer/2011teaq/

Sponsored by: Chinese Comparative Education
Society-Taipei

30/4/11

"Giáo dục Du lịch" - Mới hay cũ?

Hôm nay khoa tôi tổ chức International conference on Teaching, learning and assessment in Higher education: comparison of International Experience. Có một báo cáo với đề tài "International Education Travel", cái mà làm thu hút sự quan tâm của tôi rất nhiều. Và tôi chợt nghĩ ra một tương lai cho những nghiên cứu về "Giáo dục du lịch",có lẽ sẽ thu hút sự quan tâm của nhiều học giả. Sau khi dự hội thảo về, tôi lên mạng và search về topic đó. Quả thật! đúng là nhiều bài viết về vấn đề này. Tuy nhiên vẫn là mới mẻ. Ở Mỹ đã có Hội đồng giáo dục du lịch (Council for Educational Travel)và cũng có những hội thảo chuyên về chủ đề này, thậm chí có cả tạp chí như ở đây

Tôi tìm được cái abstract của một tác giả ở Mỹ không có full paper nhưng có địa chỉ email. Có thể một ngày gần đây tôi thực sự muốn tìm hiểu về chủ đề này tôi sẽ liên hệ với tác giả. Chứ vào mấy cái journal lúc nào cũng đòi visa card. Ôi cái khoản này là tôi chịu. Potay. com :))
Thế nhỉ? một ngày nào đó tôi sẽ viết!


Tôi xin giới thiệu abstract của tác giả:

International Education Travel and Youth of Color: College Is Too Late!
Carlton E. McLellan
Academy for Educational Development, Washington, DC, carlton@myinternational.org

Abstract

Drawing on literature analyzing impacts of academic and professional early preparation programs for urban students, and particularly those of color, this article argues for the use of similar strategies to encourage and prepare youth from those backgrounds for international education travel. The central argument is that educators must focus more on motivating and reaching such youth prior to higher education, if they are to succeed in significantly diversifying participation in international education travel aimed at preparing global citizens. It suggests the use of early preparation programs specifically geared toward encouraging these youth to travel abroad (or at least consider it), as a method to positively influence efforts to increase their participation in international educational travel programs, like study abroad. The article is thus interdisciplinary in nature, attempting to link scholarship on early preparation programs and international education travel.