Kết
quả PISA 2012 vừa được công bố ngày 3 tháng 12 năm 2013, Việt Nam đã “gây bất
ngờ cho cả thế giới” với thành tích vượt cả những cây cổ thụ có nền giáo dục vượt
bậc như Anh, Mỹ, Úc…Điều này làm cho nhiều nhà quản lý giáo dục vui mừng tự hào
vì kết quả “vượt bậc”. Thế nhưng có ai đặt câu hỏi: đằng sau kết quả thành tích
điểm số PISA đó thì thực chất sản phẩm giáo dục của chúng ta như thế nào?
Động
cơ học tập: chưa xuất phát từ bản thân
Trong cuộc khảo sát năm 2012, PISA tập trung vào toán học vì
thế phiếu khảo sát dành cho học sinh cũng xoay quanh những câu hỏi liên quan đến
toán học. Một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến thành tích toán học của học
sinh là động cơ học tập bao gồm động cơ bên trong (intrinsic motivation) và động
cơ thực dụng (intrinsic motivation) đã OECD phân tích rất rõ trong báo cáo sơ bộ.
Động cơ bên trong bao gồm những câu hỏi liên quan đến sự yêu mến, thích thú
dành môn học. Đông cơ thực dụng bao gồm những câu hỏi liên quan đến giá trị của
môn học cho công việc, nghề nghiệp tương lai.
Theo báo cáo, có hơn 70% học sinh Indonesia, Malaysia,
Kazakhstan, Thái Lan và Albania cảm thích thú với toán học; và hơn 80% học
sinh Albania, Thailand, Colombia, Peru,
Mexico, Kazakhstan, Jordan và Malaysia cảm thấy thú vị với những gì họ học được
trong toán học. Trong khi đó những nước
này lại có thành tích toán học thấp dưới mức trung bình của OECD, đặc biệt
Indonesia đứng ở áp chót bảng xếp hạng nhưng học sinh Indonesia lại vô cùng vui
vẻ, thích thú với toán học.
Kết quả phân tích SPSS theo dữ liệu công bố của OECD: có 76,1%
học sinh cảm thấy thích đọc về toán học; 57,6% học sinh mong chờ những tiết chọ
toán; 67,6% học sinh làm toán bởi vì yêu thích toán; và 80,1% học sinh thấy thú
vị với những gì học được trong môn toán (xem bảng 1). Theo báo cáo của OECD
thì giới tình và kinh tế- xã hội có ảnh
thưởng rất nhiều đến động cơ bên trong của học sinh Việt Nam nhưng động cơ bên
trong này có mối quan hệ không cao với việc học toán và thành tích toán học của sinh viên Việt Nam. Mối
quan hệ giữa động cơ bên trong với thành tích học tập của học sinh Việt Nam chỉ
trong khoảng trung bình của OECD. Các nước có mối quan hệ này cao như Hàn Quốc,
Đài Loan, Na Uy, Ba Lan, Nhật Bản và Thượng
Hải – Trung Quốc.
Đông cơ thực dụng của học sinh Việt Nam rất đáng chú ý khi tỷ
lệ khá cao: có 94,3% học sinh cố gắng học toán vì toán sẽ giúp cho công việc về
sau; 88,2% học sinh học toán vì toán sẽ cải thiện nghề nghiệp của họ sau này; 87,9%
học sinh thấy toán học quan trong cho việc học về sau; 86,5% học sinh cho rằng
những thứ học được trong toán học sẽ giúp ích cho công việc (xem bảng 1). Tỷ lệ
này của Việt Nam là cao so với trung bình của OECD vì theo báo cáo của OECD thì
không có yếu tố nào trong các yếu tố trên vượt mức 80%. Cũng theo báo cáo này,
những yếu tố về giới tính và kinh tế-xã hội cũng có ảnh hưởng lớn đến động cơ
thực dụng của học sinh Việt Nam. Phân tích về sự ảnh hưởng của động cơ thực dụng
với việc học toán và thành tích toán học thì Việt Nam xếp cao hơn trung bình của
OECD và nằm trong tốp 20 nước/vùng kinh tế có mối quan hệ ảnh hưởng giữa động
cơ thực dụng với thành tích toán học của học sinh.
Bảng 1. Tỷ lệ % động cơ bên trong và động
cơ thực dụng của học sinh Việt Nam trong PISA 2012
Rất đồng ý
(%)
|
Đồng ý
(%)
|
Không đồng ý (%)
|
Rất không đồng
ý (%)
|
Tổng số
(%)
|
Missing (số học
sinh)
|
||
Động cơ bên trong
|
Thích đọc về toán học
|
14,8
|
61,3
|
22,6
|
1,3
|
100
|
1699
|
Mong đợi những tiết toán học
|
7,4
|
50,2
|
39,3
|
2,5
|
100
|
1696
|
|
Thích học toán vì
thích toán
|
14,0
|
53,6
|
38,0
|
1,6
|
100
|
1697
|
|
Thích thú với những gì học được trong
toán học
|
17,2
|
62,9
|
19,0
|
0,9
|
100
|
1711
|
|
Động cơ thực dụng
|
Cố gắng học toán vì
nó giúp ích cho công việc sau này
|
39,2
|
55,4
|
4,7
|
0,6
|
100
|
1694
|
Học toán là có giá trị giúp cải thiện
cơ hội triển vọng nghề nghiệp
|
30,5
|
57,7
|
10,9
|
0,8
|
100
|
1700
|
|
Toán học quan trọng
cho tương lai
|
29,1
|
58,8
|
11,1
|
0,9
|
100
|
1694
|
|
Những cái học được từ toán học sẽ giúp
cho công việc
|
26,7
|
59,8
|
12,6
|
0,9
|
100
|
1694
|
*Mẫu khảo sát: 4959 học sinh
** Số liệu trên không bao gồm số
phiếu missing (số phiếu không trả lời và số phiếu không hợp)
Học sinh có động cơ học tập là rất tốt nhưng khi động cơ thực
dụng lớn hơn động cơ bên trong thì là một điều nguy hiểm. Vì động cơ thực dụng
là thể hiện sự mong muốn phải đạt được cái gì đó, và để đạt được cái mong muốn
đó thì có thể dùng đủ các biện pháp bất chất hậu quả của nó. Điều này nhận thấy
rất rõ trong giáo dục hiện nay như: học thêm, chạy điểm, coi cóp…để đạt được điểm
số cao, trò giỏi, thầy giỏi, trường giỏi,…Chính vì thế “bệnh thành tích” trong
giáo dục hiện nay vẫn là “căn bệnh nan y”!
Sự tự tin vào khả năng của bản
thân: Giỏi lý thuyết, yếu thực hành
PISA
2012 để cho học sinh tự nhận xét về sự tự tin đối với một loạt các nhiệm vụ thuần
túy và ứng dụng toán học liên quan đến đại số, chẳng hạn như sử dụng một bảng
giờ tàu để tính được thời gian từ nơi này đến nơi khác; tính xem một chiếc ti
vi giá bao nhiêu sau khi giảm đã giá 30%; tính bao nhiêu mét vuông gạch cần thiết
để lát một sàn nhà; tính mức tiêu thụ xăng của một chiếc xe, đọc hiểu biểu đồ trong
một tờ báo; tìm kiếm các khoảng cách thực tế giữa hai địa điểm trên bản đồ với
quy mô 1: 1000; giải phương trình như 3x
+ 5 = 17 và 2 (x +3) = (x +3) (x-3). Học sinh trả lời các câu hỏi về việc liệu
họ cảm thấy rất tự tin, tự tin, không tự tin và rất không
tự tin được sử dụng để xác định mức độ tự tin vào khả năng toán học của học sinh.
Kết
quả phân tích SPSS của PISA Việt Nam cho thấy:
Bảng 2.
Tỷ lệ % sự tự tin vào khả năng toán học của học sinh Việt Nam trong PISA 2012
Rất
tự tin
(%)
|
Tự tin
(%)
|
Không tự tin (%)
|
Rất không tự tin (%)
|
Tổng số
(%)
|
Missing (số học
sinh)
|
|
Sử dụng bản
giời tàu để thời gian giờ tàu tàu chạy
|
10,4
|
45,1
|
41,6
|
2,9
|
100
|
1698
|
Tính giá một
chiếc ti vi sau khi giảm giá 30%
|
29,3
|
53,4
|
16,3
|
1,0
|
100
|
1673
|
Tính bao
nhiêu mét vuông gạch cần thiết để lát 1 sàn nhà
|
32,3
|
53,3
|
13,7
|
0,7
|
100
|
1699
|
Đọc hiểu những
biểu đồ trên báo
|
10,7
|
44,0
|
43,4
|
1,9
|
100
|
1673
|
Giải phương
trình như: 3x+5=17
|
53,3
|
36,3
|
9,5
|
0,9
|
100
|
1694
|
Tính khoảng
cách thực tế giữa hai nơi với lỷ lệ 1:10.000
|
12,5
|
34,0
|
50,0
|
3,5
|
100
|
1673
|
Giải phương
trình như:
2(x+3)=
(x+3) (x-3)
|
37,3
|
40,9
|
20,3
|
1,6
|
100
|
1696
|
Tính mức tiêu
thụ dầu của một chiếc xe
|
6,3
|
35,6
|
52,3
|
5,9
|
100
|
1696
|
*Mẫu khảo sát: 4959 học sinh
** Số liệu trên không bao gồm số
phiếu missing (số phiếu không trả lời và số phiếu không hợp)
Từ bảng
dữ liệu trên ta thấy học tỷ lệ sinh Việt Nam không tự tin vào khả năng toán học
của mình ở mức cao. Trong 8 câu hỏi đưa ra bao gồm cả những câu hỏi liên quan đến
kiến thức lý thuyết và khả năng thực hành toán học. Có thể thấy rằng học tỷ lệ
học sinh Việt Nam tự tin vào kiến thức lý thuyết cao hơn khả năng thực hành. Chẳng
hạn, với câu hỏi liên quan đến giải phương trình, tình mét vuông thì sự tự tin
của học sinh rất cao nhưng với các câu hỏi như tính mức tiêu thụ dầu, tính thời
gian tàu chạy, đọc hiểu biểu đồ trên báo thì học sinh lại mất tự tin. Trong khi
đó theo báo cáo của OECD thì tỷ lệ học sinh được khảo sát rất tự tin vào khả
năng tính thời gian giờ tàu chạy, đọc biểu đồ trên báo là rất cao so với những
cái còn lại. Cũng theo báo cáo Việt Nam
là nước đứng thứ nhất thể hiện mối quan hệ ảnh hưởng của sự thiếu tự tin vào khả
năng toán học học của học sinh với thành tích toán học. Tức là, học sinh đạt kết
quả thấp thong bài kiếm tra ở những câu mang tính thực hành. Như vậy câu hỏi đặt
ra cho giáo dục của chúng ta là tại sao học sinh Việt Nam vẫn chỉ giỏi lý thuyết
và yếu thực hành? Đó chính là vấn đề mà ngành giáo dục phải quan tâm và phải có
giải pháp để có thể cải thiện được thực trạng hiện nay.
Sự lo lắng của học sinh: Điểm số
Đã
có rất nhiều nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng hiện nay học sinh rất lo lắng
về thành tích học tập ở trường, cũng như là lo lắng về các kỳ thi, kỳ kiểm tra.
PISA 2012 đã hỏi sinh đưa ra ý kiến của mình là đồng ý hoặc rất đồng ý nếu các
em cảm thấy thường lo lắng về toán học sẽ khó đối với các em, thường rất căng
thẳng khi các em phải làm bài tập toán về nhà; rất lo lắng làm các vấn đề về
toán học; các em cảm thấy bất lực khi làm một vấn đề toán học, và các em lo lắng
là sẽ bị điểm kém môn toán. Từ đó OECD sẽ xác định được chỉ số về sự lo lắng của
học sinh đối với toán học. Nhìn vào bảng 3, ta thấy tỷ lệ lo lắng của học sinh
Việt Nam đối với toán học là khá cao. Tỷ lệ cao nhất là học sinh lo lắng toán học
sẽ khó hơn chiếm 72,4% trong khi đó trung bình của OECD chỉ gần 60%, đứng thứ hai là tỷ lệ học sinh lo lắng bị điểm
kém môn toán chiếm 71,4% trong khi tỷ lệ
trung bình của OECD chỉ hơn 60%. Theo
phân tích của OECD thì yếu tố lo lắng đối với toán học ảnh hưởng đến học thành
tích toán học của học sinh, đặc biệt điều này thể hiện rõ nét hơn ở hai nhóm học
sinh đạt kết quả cao và học sinh có kết quả thấp. Những học sinh có kết quả cao
thì sự lo lắng này càng cao.
Bảng 3. Tỷ lệ % sự lo lắng đối với
toán học của học sinh Việt Nam trong PISA 2012
Rất đồng ý
(%)
|
Đồng ý
(%)
|
Không đồng ý (%)
|
Rất không đồng
ý (%)
|
Tổng số
(%)
|
Missing (số học
sinh)
|
|
Lo lắng môn
toán sẽ khó
|
11,9
|
60,5
|
25,0
|
2,6
|
100
|
1664
|
Cảm thấy căng
thẳng với toán học
|
4,0
|
21,4
|
50,7
|
10,0
|
100
|
1699
|
Cảm thấy lo
lắng về môn toán
|
5,0
|
38,5
|
47,9
|
8,6
|
100
|
1671
|
Cảm thấy bất
lực với toán học
|
3,7
|
53,2
|
52,9
|
8,2
|
100
|
1669
|
Lo lắng bị
điểm kém
|
18,9
|
52,5
|
22,3
|
6,2
|
100
|
1670
|
*Mẫu khảo sát: 4959 học sinh
** Số liệu trên không bao gồm số
phiếu missing (số phiếu không trả lời và số phiếu không hợp)
Qua khảo sát PISA 2012
cho thấy rằng học sinh Việt Nam vẫn quan trọng điểm số vì các em lo lắng bị điểm
kém. Trên thực tế hiện nay, không chỉ có
học sinh mà còn phụ huynh mong muốn con em mình có thành tích cao nên ép con em
mình học quá mức gây ra nhiều hậu quả như stress, trầm cảm…thậm chí có nhiều
trường hợp các em tự tử vì không đạt thành tích như mong muốn. Như vậy, vấn đề
đặt ra ở đây cho ngành giáo dục của chúng là gì? Liệu có tiếp tục để những thế
hệ tiếp theo tiếp tục lo lắng về điểm số nữa không?
Vấn đề cần giải quyết?
Lần đầu tiên Việt Nam
tham gia PISA, đứng thứ 17 về toán học, 18 về đọc hiểu và thứ 8 về khoa học là
một điều không thể phủ nhận bởi đây là kết
quả cố gắng của 4959 em học sinh, giáo viên, và những người làm quản lý giáo dục.
Tuy nhiên chúng ta được chủ quan “yên tâm về giáo dục phổ thông”, vì đứng thứ hạng
cao không có nghĩa là có nền giáo dục tốt. Tham gia PISA không phải là để biết
được giáo dục của ta đang đứng ở vị trí nào trên thế giới mà tham gia PISA để
thấy được giáo dục của ta đang đang “mắc bệnh” gì để kịp thời có biện pháp chữa
trị. Đó mới là ý nghĩa thực sự khi Việt Nam tham gia PISA.
Tài liệu tham khảo
OECD (2013), PISA 2012 Results: Ready to Learn –
Students’ Engagement, Drive and Self-Beliefs (Volume III),
PISA, OECD Publishing.
OECD, PISA 2012 Database: http://pisa2012.acer.edu.au/
1 nhận xét:
Chào bạn, mình là Hiệp Phạm, reporter của University World News, chắc bạn cũng đã biết đến mình rồi vì mình thấy trên blog của bạn lưu lại một số bài viết của mình trước đây. Mình hiện cũng là PhD student tại Chinese Culture University, Taipei. Mình thấy bài viết này của bạn có nhiều điểm thú vị. Không biết bạn đã đăng ở đâu chưa? Nếu chưa, mình đề xuất giúp bạn thử gửi cho 1 số báo ở VN, mình làm báo như 1 nghề tay trái nên cũng có 1 số contact. Liên lạc lại với mình vào phamhunghiep@gmail.com nhé. Thân mến
Đăng nhận xét